[slide-anything id="248"]

Đề tài: Thực trạng và phương hướng phát huy giá trị Phật giáo và văn hóa dân tộc trong hoạt động hoằng pháp nơi quý tăng ni trụ trì

I.Đặt vấn đề

Lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng đã chứng minh những đóng góp quan trọng vào công cuộc dựng nước, giữ nước và bảo vệ Tổ quốc của Phật giáo. Qua nhiều triều đại phong kiến, nhiều vua, quan là Phật tử đã vận dụng những tinh hoa trong tư tưởng, triết lý của đạo Phật phục vụ cho công cuộc chấn hưng đất nước. Cùng với tinh thần tự chủ, độc lập, anh dũng của dân tộc, các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đã khẳng định tinh thần gắn liền đạo pháp với dân tộc của Phật giáo.

Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng từ bi, hỉ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời, phấn đấu vì hạnh phúc và an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời hộ quốc an dân.

Trong xã hội Việt Nam ngày nay, vị trí và vai trò của tất cả các tôn giáo đều được đề cao, nhân dân có quyền tự do lựa chọn tín ngưỡng tôn giáo, vì thế vai trò của hoằng pháp là rất quan trọng. Người thực hiện công tác hoằng pháp phải khéo léo, uyển chuyển để người dân hiểu được giá trị tốt đẹp của đạo Phật, để tư tưởng Phật giáo đi vào lòng quần chúng nhân dân, hòa nhập với văn hóa bản địa, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân địa phương. Để làm được điều đó thì vai trò của trụ trì nơi trú xứ là vô cùng quan trọng, quyết định phần lớn kết quả của hoạt động hoằng pháp.

  1. Lý do chọn đề tài

Xã hội ngày nay, khoa học đang phát triển như vũ bão, làn sóng văn minh vật chất đang tấn công con người từ nhiều phương tiện khác nhau. Để duy trì được giá trị văn hóa truyền thống và nhân cách con người cũng như ổn định trật tự xã hội là một vấn đề rất lớn đối với chúng ta: Đề tài “phát huy giá trị Phật giáo và văn hóa dân tộc trong hoạt động hoằng pháp” sẽ góp phần nâng cao nhận thức đối với hình ảnh người tu sĩ Phật giáo trong thời đại mới.

Bằng những hành động thiết thực trong tu tập và tham gia hoạt động hằng pháp, người tu sĩ phần nào đóng góp cho sự phát triển của xã hội trên nhiều phương diện trong hiện tại và tương lai.

  1. Mục đích nghiên cứu

Phật giáo nói riêng, rất cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp cũng như vai trò, đóng góp của các tôn giáo chính thống – nhân bản, trong đó có Phật giáo vào quá trình phát triển của đất nước. Với lịch sử hơn 2.000 năm, Phật giáo đã hội nhập và đồng hành như một thành tố không thể chia cắt trong đời sống văn hóa – xã hội của người dân Việt Nam. Thể hiện trên một số khía cạnh nổi bật mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của người Việt Nam: đề cao giá trị con người, hướng thiện, xây dựng xã hội an bình, duy trì và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, hòa đồng với cộng đồng, giáo dục và phát huy truyền thống yêu nước. Chung tay xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

  1. Đối tượng nghiên cứu

Giá trị Phật giáo và văn hóa dân tộc trong hoạt động hoằng pháp, Phật giáo luôn đồng cam cộng khổ cùng Dân tộc. Bởi Đức Phật thị hiện ra đời là vì lợi ích, vì lòng thương tưởng hạnh phúc cho số đông. Tư tưởng của Ngài xuyên suốt trong tam tạng Thánh điển. Cho nên hàng tu sĩ Phật giáo luôn hành theo lời dạy của Đức Phật với tinh thần “Phật pháp bất ly thế gian giác”. Phát huy truyền thống đó, nhiều thế kỷ qua đã có nhiều vị cao tăng bước chân vào xã hội giúp ích cho đời.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Phật giáo đã vào sinh ra tử và đã đóng góp rất nhiều công sức để giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, Phật giáo nước nhà đã sản sinh ra nhiều thế hệ Tăng Ni, Phật tử đạo cao, đức trọng, có tài năng, trí tuệ vận dụng trong cuộc sống. Trong bối cảnh gần 1000 năm Bắc thuộc, thì mỗi người tu sĩ Phật giáo thực sự trở thành vũ khí tinh thần chống lại sự xâm lược nô dịch và đồng hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc. Trải qua các triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần, các vị thiền sư, Phật tử tiêu biểu như: Vạn Hạnh, Minh Không, Đạo Hạnh, Lý Công Uẩn, Lý Nhân Tông… đều là những nhà chính trị, quân sự, ngoại giao xuất sắc của thời đại, là những người có công lớn với việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phật giáo đã được nâng lên một tầm cao mới, hòa nhập với tinh thần chủ đạo của xã hội và được coi là nền tảng đạo đức của xã hội. Phật giáo thực sự đã trở thành Tôn giáo của Dân tộc.

Cụ thể, bài viết này sẽ đề cập trực tiếp tới tình hình, thực trạng công tác hoằng pháp tại chùa Thiên Long – thôn Yên Nhân, xã Tiền Phong, huyện Mê Linh, Hà Nội và phương hướng phát triển công tác hoằng pháp tại đây.

  1. Thực trạng tại địa phương cư trú
  2. Đặc điểm tình hình dân cư, kinh tế, văn hóa

1.1. Dân cư

Chùa Thiên Long nằm ở phía Bắc thôn Yên Nhân, xã Tiền Phong, huyện Mê Linh, Hà Nội, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 20km, cách sân bay nội bài khoảng 11km, gần khu công nghiệp và rất nhiều công ty, nhà máy, xí nghiệp lớn. Đây cũng là vựa hoa, rau củ lớn của thành phố, giúp người dân có thu nhập tốt, ổn định kinh tế.

Tại thôn Yên Nhân, tình hình kinh tế đang có bước phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân dân được cải thiện hơn. Trình độ nhận thức, dân trí của người dân ngày càng được nâng cao, việc học tập luôn được chú trọng phát triển hàng đầu, rất nhiều bạn trẻ có trình độ Cử nhân, Thạc sĩ, am hiểu về nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực. Đại đa số người dân đều hiền lành, chất phác, thật thà, lao động trong nhiều ngành nghề: công nhân, viên chức, dân buôn bán, tiểu thương, làm nông nghiệp…

Tính đến nay, Tiền Phong là xã có tốc độ đô thị hóa cao nhất huyện Mê Linh, kinh tế phát triển giúp người dân từng ngày nâng cao đời sống vật chất, cải thiện đời sống văn hóa của mình. Trong đó, thôn Yên Nhân là một trong những thôn có dân số lớn nhất của xã Tiền Phong. Đây vừa là một lợi thế, vừa là một khó khăn, thách thức đối với hoạt động hoằng pháp tại chùa Thiên Long.

1.2. Văn hóa

Bên cạnh phát triển kinh tế, thôn Yên Nhân nói riêng và xã Tiền Phong nói chung rất chú trọng đến phát triển văn hóa, phát huy truyền thống của địa phương.

Hầu hết các thôn của xã Tiền Phong đều có di tích văn hóa, cụ thể như:

  • Thôn Ấp 1 có Miếu Làng
  • Thôn Ấp Trung Hậu có Miếu Làng
  • Thôn Do Nhân Thượng có Đình Làng, Chùa Linh Thiên
  • Thôn Do Nhân Hạ có Chùa Khai Quang
  • Thôn Phố Yên có Chùa Tùng Lâm
  • Thôn Trung Hậu Đông có Đình Làng
  • Thôn Trung Hậu Đoài có Đình Làng
  • Thông Đồng có chùa Trung Hậu (Tổ Đình Trung Hậu – nằm cạnh đường Quốc lộ 23B) là di tích có giá trị văn hóa vô cùng quý giá.

Riêng tại thôn Yên Nhân có Miếu Bà (đã được xếp hạng di tích cấp Thành phố), Chùa Thiên Long và Đền Thiện đang hoàn tất thủ tục chờ Thành phố công nhận di tích văn hóa. Ngoài ra, mỗi xóm trong thôn đều có 01 Điếm. Có thể thấy, Yên Nhân là một trong những thôn có nền văn hóa, tín ngưỡng phát triển nhất tại xã Tiền Phong.

Người dân Yên Nhân có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Để có được Yên Nhân ngày nay, các thế hệ người dân Yên Nhân đã phải trải qua những chặng đường lịch sử đầy khó khăn, gian khổ và hy sinh oanh liệt. Để tồn tại và phát triển người dân Yên Nhân đã đổ mồ hôi, nước mắt, máu và trí tuệ để tạo dựng quê hương với những truyền thống quý báu và giàu tiềm năng, hình thành nên bản sắc riêng của quê hương Yên Nhân trong dòng chảy của lịch sử dân tộc.

Vùng đất Yên Nhân giàu truyền thống đấu tranh Cách mạng chống giặc ngoại xâm qua các thời kỳ, góp phần vào chiến công chung của cả dân tộc, giải phóng đất nước, thống nhất tổ quốc. Bên cạnh đó quê hương Yên Nhân còn giàu truyền thống văn hóa tín ngưỡng. Hàng năm, người dân thôn Yên Nhân vẫn tổ chức các lễ hội làng, các hoạt động tín ngưỡng thường niên tại Miếu Bà, Đền Thiện và đặc biệt là tại chùa Thiên Long.

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam. Mỗi ngôi chùa là một ngôi nhà tâm linh để cho người dân quay trở về lương tựa, điều này khẳng định Phật giáo là phần không thể tách rời trong văn hóa của người Việt: “Mái chùa che chở hồn dân tộc, Nếp sống muôn đời của tổ tông”. Đạo Phật có mặt ở khắp nơi, trong nếp nhà của mỗi gia đình, dòng họ, trong sinh hoạt văn hóa lễ hội các vùng miền… Trong lao động sản xuất, thực hiện nếp sống đạo đức văn hóa, nhiều Tăng, Ni, Phật tử trở thành những người tiêu biểu, gương mẫu, là chỗ dựa tinh thần đáng tin cậy của Phật giáo trong khối Đại đoàn kết dân tộc.

 

  1. Thực trạng hoạt động văn hóa Phật giáo tại chùa Thiên Long 

2.1. Lịch sử hình thành và phát triển

Chùa Thiên Long nằm ở phía Bắc thôn Yên Nhân, xã Tiền Phong, huyện Mê Linh, Hà Nội. Chùa được xây dựng từ thời cổ, với quy mô diện tích rộng lớn, kiến trúc, đường nét hoa văn độc đáo được khắc chạm trên những loại gỗ quý hiếm, có giá trị lịch sử văn hoá vô cùng to lớn. Từ xa xưa, chùa Thiên Long đã là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương và các Phật tử xa gần.

Theo lời những người lớn tuổi trong thôn kể lại, thời xa xưa thường có các vị sư ni trụ trì tại chùa, sau đó là đến các vị sư tăng trụ trì. Hai Hòa Thượng tăng viên tịch tại chùa đã được nhân dân thôn Yên Nhân tôn kính làm lễ nhập tháp, yên nghỉ trong hai mộ tháp cạnh nhà Tổ. Đó là cố giác linh Hòa Thượng Thích Thanh Thinh mất ngày 03/03/năm Nhâm Thân (1932 ) và cố giác linh Hòa Thượng Thích Thanh Khung mất ngày 10/03/năm Canh Thìn (1940).

Trải bao biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc, năm 1947-1955 chùa đã tiêu thổ trong kháng chiến chỉ còn sót lại 2 ngôi tháp cổ của 2 đời Tổ Sư.

Suốt một thời gian dài người dân Yên Nhân không có chùa thờ cúng và không có Quý Sư trụ trì. Mãi đến năm 1989 các cụ Hoàng Thị Chúc, Nguyễn Thị Năm, Hà Thị Chắt, Hoàng Thị Tư cùng một số cụ bà trong thôn đã mượn một gian cuối nhà kho đựng thóc giống của huyện làm nơi thờ cúng, sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng cho người dân thôn Yên Nhân.

Với đạo lý hướng về cội nguồn, toàn thể cán bộ, nhân dân và các cụ bô lão thôn Yên Nhân đều tâm huyết muốn tái thiết lại ngôi chùa cổ. Đáp ứng nguyện vọng đó Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương đã quan tâm giúp đỡ. Đặc biệt, một người con của quê hương là ông Trịnh Đình Dũng và gia đình đã khởi tâm công đức, cùng với Phật tử thập phương tập bè kết phúc, đóng góp xây dựng lại ngôi chùa cổ. Ngày 15/10/2004 Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc (Năm 2004, huyện Mê Linh vẫn thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) đã cấp giấy phép số 3647 phê duyệt dự án đầu tư xây dựng khôi phục, tôn tạo khu di tích chùa Thiên Long, thôn Yên Nhân, xã Tiền Phong.

Tháng 4 năm 2005 dưới sự chủ trì của Đại Đức Thích Minh Nghiêm, trưởng ban trị sự Phật Giáo tỉnh Phú Thọ, trụ trì chùa Giàn, Xuân Đỉnh – Hà Nội, trong ban vận động công đức cùng toàn thể nhân dân địa phương, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm đã phát tâm xây dựng ngôi Tam Bảo và nhà Tổ.

Năm 2011, Sư Thầy Thích Nữ Hải Quang về chùa trụ trì, được sự quan tâm giúp đỡ của toàn thể chính quyền và nhân dân thôn Yên Nhân, ngày 04 tháng 03 năm Quý Tỵ (2013) đã khởi công xây dựng Cổng Tam Quan, Nhà Mẫu, Nhà Khách và các công trình phụ trợ khác.

2.2. Công tác hoằng pháp

Thông qua những hoạt động mang tính xã hội, chùa Thiên Long nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung đã thể hiện sâu sắc tinh thần nhân văn, hướng thiện, tăng cường kết nối tình đoàn kết giữa Đạo với Đời, giữa các tầng lớp nhân dân, góp phần giáo dục, phát huy tinh thần cộng đồng, phát huy sức mạnh tập thể theo truyền thống của người Việt.

Lấy đạo đức, trí tuệ làm cốt lõi cho sự tồn tại và phát triển nên Phật giáo là đạo của sự giác ngộ, giác ngộ để giải thoát khỏi tham lam, thù hận. Suy ra, nếu mỗi con người nhận thức đúng đắn (tức là giác ngộ) về tự nhiên và xã hội, hiểu rõ quan hệ của cá nhân trong cộng đồng và ảnh hưởng của xã hội tới cá nhân, thì sẽ có hành động và ứng xử đúng mực, hài hòa giữa (con người và tự nhiên, cá nhân và cộng đồng), biết sống hòa đồng và tăng cường hỗ trợ lẫn nhau… Muốn truyền bá tư tưởng, giá trị tốt đẹp của đạo Phật trước hết phải thay đổi nhận thức của con người. Đó chính là phương hướng cốt lõi trong hoạt động hoằng pháp tại chùa Thiên Long, hướng tới kết quả sâu sắc, lâu dài.

Dưới sự ủng hộ của chính quyền địa phương cùng toàn thể người dân trong thôn, sau khi chùa Thiên Long được xây dựng khang trang, sạch đẹp đã trở thành nơi sinh hoạt, văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo chính của người dân địa phương.

Hoạt động đi lễ chùa đầu năm là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam từ ngàn xưa. Sau lễ giao thừa, người dân lên chùa cầu cho gia đình một năm mới bình an, hạnh phúc, đất nước được thái hòa,… Sau khi chùa được trùng tu, cải tạo, người đi lễ chùa vào các ngày rằm, mùng một hằng tháng, vào dịp lễ tết ngày càng đông hơn. Sau nghi lễ giao thừa chào đón năm mới, đền, chùa Thiên Long luôn nườm nượp khách dâng hương. Không khí nhộn nhịp này diễn ra từ ngày đầu năm mới đến hết tháng Giêng.

Chùa đã thành lập rất nhiều hội nhóm, đoàn thể để phát triển công tác văn hóa như: tổ đạo tràng, tổ tụng kinh, tổ thanh niên… Các tổ hoạt động sôi nổi, phát triển dưới sự quản lý, hỗ trợ của Sư thầy Thích Nữ Hải Quang. Mỗi tổ có nhiệm vụ riêng, giúp nâng cao đời sống tinh thần của người dân.

Chùa Thiên Long, cụ thể là sư thầy Thích Nữ Hải Quang đã tổ chức các buổi thuyết giảng với nhiều chủ đề khác nhau cho hàng trăm tín đồ Phật tử trên địa bàn và các tỉnh lân cận. Qua đó, truyền tải được tinh thần Phật giáo, cũng như phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tới người dân. Mọi hoạt động của chùa đều được sự ủng hộ và hỗ trợ nhiệt tình của chính quyền địa phương. Ngược lại, chùa Thiên Long luôn tham gia tích cực vào các chương trình văn hóa, tín ngưỡng tại thôn Yên Nhân nói riêng và xã Tiền Phong nói chung.

Hàng tuần, chùa tổ chức các buổi giảng kinh thuyết pháp, tụng kinh, cầu cho dân làng có cuộc sống đủ đầy, sức khỏe, bình an. Đều đặn hàng năm, chùa tổ chức các ngày lễ lớn như: Lễ dâng sao giải hạn đầu năm, Đại lễ Phật Đản, pháp hội Vu Lan báo hiếu, lễ Vía Quan Âm, lễ Vía A Di Đà…

Bên cạnh đó, chùa còn thường xuyên tổ chức các khóa tu, đặc biệt là khóa tu mùa hè cho các em học sinh tham gia. Tại khóa tu, các em sẽ được học về giá trị tốt đẹp của Phật giáo, được dạy bảo về những giá trị đạo đức tốt đẹp, được rèn luyện kỹ năng sống, nâng cao trí tuệ và thể lực, rèn luyện tính đoàn kết trong cộng đồng, đặc biệt là tạo sân chơi bổ ích cho các em nhỏ trong thời gian nghỉ hè.

Đặc biệt, chùa Thiên Long còn tổ chức và phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức liên hoan Tết thiếu nhi, Tết Trung thu cho các em nhỏ tại địa phương, các chương trình thiện nguyện: kêu gọi, quyên góp tiền, hiện vật cho những người dân có hoàn cảnh khó khăn trong địa bàn thôn; những địa phương ở vùng sâu, vùng xa còn thiếu thốn hay những địa phương chịu ảnh hưởng của thiên tai bão lũ…

2.3. Kết quả thu được

Kể từ khi về nhận chùa, Thích Nữ Hải Quang đã cùng với các Tăng ni, Phật tử tôn tạo cảnh chùa, xây dựng chùa rộng rãi, khang trang với nhiều công trình kiến trúc độc đáo; giữ gìn vệ sinh chùa sạch sẽ. Tất cả những nỗ lực trong công tác hoằng pháp suốt thời gian qua đã thu được kết quả vô cùng tốt đẹp. Bằng chứng rõ ràng nhất là số lượng người dân, Phật tử đến chùa ngày càng nhiều, không chỉ vào những ngày lễ lớn, các dịp mùng 1, ngày rằm mà mỗi khi có thời gian rảnh, người dân đến chùa thắp hương, tham quan cảnh chùa, coi chùa Thiên Long là một nơi thư giãn, làm dịu mát tâm hồn, tránh xa những vất vả, mệt nhọc của cuộc sống đời thường. Người dân khi gặp những vấn đề khó khăn, rắc rối trong cuộc sống đã đến chùa để tìm được nét thanh tịnh trong tâm hồn.

Ngoài ra, một số phong tục, tập quán khác cũng chịu tác động rất lớn từ công tác hoằng pháp. Ngày càng nhiều các bạn trẻ tìm đến nhà chùa làm lễ hằng thuận (kết hôn) để tăng tính thiêng cho nghi lễ hôn nhân. Cùng với đó, tang ma của một bộ phận người dân trong thôn cũng có sự hiện diện của nhà sư làm lễ cầu siêu cho linh hồn người chết. Bên cạnh đó, người dân địa phương cũng đã mời đại diện của nhà chùa tới thực hiện các nghi lễ như lập đàn cúng 35 ngày, 49 ngày, lễ động thổ, lễ tân gia… Đây cũng là một nét đẹp mà Phật giáo đem lại cho văn hóa truyền thống của dân tộc. Sinh hoạt tôn giáo cũng là môi trường để các tín đồ học hỏi, tăng cường hiểu biết những kiến thức mới giúp đồng bào có thêm tri thức về chăn nuôi, trồng trọt, kinh doanh, buôn bán và trở nên năng động hơn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, đã đem đến cho một bộ phận đồng bào các dân tộc lối sống mới có nhiều yếu tố tích cực hơn.

Bằng những buổi thuyết giảng, những hành động thiết thực trong công tác hoằng pháp mà chùa Thiên Long đã góp phần giúp người dân hiểu đúng về giáo lý chân chính của đạo Phật, thấy được những giá trị tốt đẹp của đạo Phật, từ đó phát tâm tu học, chăm làm việc thiện, chuyển hóa được nghiệp báo. Sự thay đổi trong nhận thức này cũng giúp người dân nâng cao hiểu biết, từ bỏ các hoạt động mê tín dị đoan, tỉnh táo hơn trước những ý đồ xấu xa. Nhân dân đoàn kết, sống đùm bọc, yêu thương nhau, tin tưởng vào đạo Phật và chính quyền địa phương, cùng nhau gìn giữ cuộc sống bình an, phát triển kinh tế, phát huy những giá trị tốt đẹp mà đạo Phật mang lại, sống có ý nghĩa hơn.

Thông qua những hoạt động mang tính xã hội, cùng với nhiều tôn giáo khác, các hoạt động hoằng pháp đã thể hiện sâu sắc tinh thần nhân văn, hướng thiện, tăng cường kết nối tình đoàn kết giữa Đạo với Đời, giữa các tầng lớp nhân dân, góp phần giáo dục, phát huy tinh thần cộng đồng, phát huy sức mạnh tập thể theo truyền thống của người Việt. Bên cạnh việc tuyên truyền, phát huy giá trị tốt đẹp của đạo Phật, chùa Thiên long vẫn giữ gìn hài hòa với các tín ngưỡng, tôn giáo khác, xây dựng đời sống tinh thần của người dân trên cơ sở hợp tác cùng phát triển với các văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo khác.

III. Giải pháp, phương hướng phát huy 

  1. Giữ vững ổn định tình hình hiện tại và ngày càng phát triển hơn

Trên cơ sở những kết quả tốt đẹp đã thu được, chùa Thiên Long sẽ tiếp tục phát triển hoạt động hoằng pháp, phát huy các giá trị tốt đẹp của đạo Phật, khắc phục những khó khăn để thực hiện tốt công tác hoằng pháp. Để đạt được hiệu quả và phát triển lâu bền thì hoạt động hoằng pháp phải có sự lớn mạnh và phát triển từ cả hai phía, cả từ nhà chùa và nhân dân địa phương. Mỗi bên đều cần có hai yếu tố đó là từ bi và trí tuệ, vì vậy chúng ta cần phải nỗ lực tinh cần tu tập và phát huy đến cao độ vì đây là hai chất liệu cần thiết để phát huy đạo đức của con người, phá vỡ những định kiến sai lầm, tháo gỡ những bảo thủ cố chấp, ganh tị, ghen ghét, đem lại tình yêu thương hiểu biết cảm thông giữa người với người, để xây dựng và phát triển đất nước, con người xã hội ngày càng văn minh.

Trong thời gian tới, chùa sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương trong công tác hoằng pháp, tham gia vào hoạt động của các tổ chức đoàn thể: Hội Chữ thập đỏ, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi, Hội Thanh Niên, Hội Phụ nữ…, đặc biệt là các chương trình thiện nguyện, giáo dục. Tích cực hỗ trợ chính quyền địa phương trong việc truyền bá các tư tưởng, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Tiếp tục tổ chức các ngày lễ văn hóa tại chùa: Lễ chùa đầu năm, lễ chùa ngày rằm và mùng một, Đại lễ Phật Đản, lễ Vu lan báo hiếu… Nắm bắt lợi thế cảnh chùa rộng để tổ chức các khóa tu mùa hè, các lễ hội văn nghệ trong các dịp lễ, giảng kinh thuyết giáo… phát triển chùa Thiên Long thành nơi sinh hoạt cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo chủ chốt trên địa bàn.

Bản thân Thích Nữ Hải Quang cùng các tăng ni trong chùa luôn cố gắng gần gũi với nhân dân không chỉ qua việc gặp gỡ, trò chuyện trực tiếp để lắng nghe, tâm tư tình cảm, vướng mắc của nhân dân mà còn thể hiện sự gần gũi với dân chúng thông qua mạng xã hội. Đây là hành động phù hợp với sự phát triển của xã hội 4.0 ngày nay.

Thường xuyên mở các khóa chuyên tu cho các tầng lớp nhân dân. Mở các đạo tràng ở các chùa để dễ dàng quản lý, hướng dẫn đạo tràng thực hiện theo đúng chủ trương đường hướng của Giáo Hội.

Tích cực hơn nữa trong việc in ấn kinh sách, băng đĩa giảng.. hướng dẫn Phật tử, phối hợp chặt chẽ với Ban từ thiện xã hội, đưa ánh sáng Phật pháp đến với những hộ nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung.

Nhận thấy tầng lớp thanh thiếu niên chính là tương lai của đất nước, là đội ngũ hoạt động năng nổ và tích cực với sức trẻ và nhiệt huyết, do đó, trong thời gian tới, chùa Thiên Long sẽ đẩy mạnh thành lập các câu lạc bộ thanh thiếu niên Phật tử và định hướng hoạt động cho các câu lạc bộ này để mỗi thanh thiếu niên sẽ mang giá trị tốt đẹp của Đạo Phật truyền bá đi khắp muôn nơi, mang lại hiệu quả lâu dài trong sự nghiệp hoằng pháp của địa phương nói riêng và cả nước nói chung.

  1. Phát huy tinh thần tự học, tự chủ, tự giác của bản thân

Người học Phật là người tu theo Phật, là nói những lời Phật nói, làm những điều Phật làm. Từ đó hình ảnh tự tại và uy nghi điềm đạm thoát tục của một tu sĩ tỏa ra những nét đẹp trong cuộc sống, làm mô phạm cho đời. Nếp sống đạo đức của người tu sĩ là nếp sống luôn có tính phản tỉnh, không buông trôi và không phóng túng. Nó như một tấm gương phản chiếu tâm hồn soi chiếu lại lòng mình và soi chiếu mọi ý nghĩ, lời nói và việc làm của mình, đó là nét đẹp của người tu sĩ Phật giáo. Là đệ tử Phật bổn, phận tu sĩ phải làm thăng hoa những giá trị cao đẹp truyền thống mà đức Phật đã dạy. Xây dựng một tương lai sáng cho đời mà không ưu tư băn khoăn trước sự thách đố của thời đại, vấn đề đạo đức của Tăng ni trẻ là vấn đề quan trọng vì họ là những giường cột cho ngôi nhà Phật pháp trong tương lai, là tấm gương cho Phật tử học tập. Chính vì thế, bản thân Thích Nữ Hải Quang luôn giữ gìn giới đức trang nghiêm, hành động và lời nói luôn tuân theo chuẩn mực của đạo Phật, nâng cao ý thức tự thân, sống có trách nhiệm và bổn phận của một người xuất gia thì mới giúp ích cho đạo pháp, có lợi cho đời được.

Để người cư sĩ Phật tử có kỹ năng phục vụ công tác hoằng pháp thì trước hết bản thân họ phải có khả năng huấn luyện chính mình qua các chương trình tu tập hàng ngày. Phải có kiến thức, kỹ năng mới có thể thuyết giảng cho Phật tử, phải hiểu biết thì mới làm cho Phật tử trở nên hiểu biết, phải có tâm sáng mới làm cho Phật tử trở nên hướng thiện. Vì vậy, việc học thêm, nâng cao trình độ là hết sức quan trọng. Cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, để không bị thụt lùi phía sau, bản thân cư sĩ không những phải trau dồi thêm kiến thức chuyên môn mà còn cần có cả kiến thức tin học, ngoại ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công tác hoằng pháp để nâng cao hiệu quả và sức lan tỏa của đạo Phật.

Tích cực hơn nữa trong công tác tình nguyện, thiện nguyện, nỗ lực hơn để các hoạt động của chùa diễn ra thường xuyên, đều đặn hơn. Tiếp tục kết hợp với các tôn giáo, tín ngưỡng khác ổn định đời sống, giữ gìn cuộc sống của nhân dân bình an, thịnh vượng.

  1. Kết luận

Công tác hoằng pháp muốn phát triển lâu dài luôn cần có những giải pháp cụ thể và thiết thực hơn để đưa đạo vào đời, tích cực giới thiệu những triết lý sống hiền thiện, sống tốt, sống đạo đức giữa người với người bằng tinh thần lục hòa cộng trụ, hay là phổ biến những nguyên lý đạo đức của người cư sĩ tại gia để từ đó con người có niềm tin vững chắc vào Phật giáo. Người Phật tử có thêm niềm động viên, an ủi trong cuộc sống tu học, thanh lọc tự thân loại trừ các xấu ác, phát huy đức tính Chân- Thiện- Mỹ của mỗi cá nhân và lan tỏa đến với cộng đồng xã hội. Mặt khác không ngừng cải tiến các phương thức hoằng pháp để khuyến khích động viên sự tu học của cư sĩ, Phật tử. Qua đó nâng cao tính thiết thực của giáo lý Phật đà và những lợi ích tu tập của Phật tử tại gia.

Ngoài việc phục vụ tín ngưỡng nên kết hợp hoằng truyền giáo lý khiến tín đồ Phật tử dần dần hiểu được những giáo lý cơ bản của đạo Phật, làm lành tránh dữ.. thương yêu đùm bọc lẫn nhau, giúp xã hội giảm đi những tệ nạn đáng tiếc. Phật pháp muốn trường tồn và phát triển thì đòi hỏi Phật giáo phải có nền giáo dục thật tốt, nền giáo dục tốt là điều kiện, động cơ, tiền đề cho việc hoằng dương chính pháp, lợi lạc, quần sinh phát huy truyền thống “Hộ quốc, an dân”, ích đạo, lợi đời, phục vụ sự phát triển của giáo hội Phật giáo Việt Nam, góp phần tích cực cho sự nghiệp xây dựng đất nước theo phương châm “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

Con đường hình thành đạo đức là biểu hiện các hành động qua các mối quan hệ tâm sinh lý nơi tự thân của mỗi con người, hơn nữa mọi sự vật đều tồn tại và vận chuyển trong mối tương quan mật thiết của lý Duyên sinh. Cho nên chúng ta không thể chối bỏ xã hội mà mình đang sống, lại không thể bỏ quên hướng đi của lịch sử, không thể thờ ơ trước nỗ lực của các bậc tiền bối. Chúng ta phải biết ôn cố tri tân, dùng những kinh nghiệm mà người xưa để lại một cách uyển chuyển hướng tới mục tiêu tối hậu là con đường giác ngộ giải thoát mà chư Phật chư Tổ đã dạy. Qua đó giúp mỗi người quay trở lại với chính mình để nhận ra những giá trị đích thực của con người chân thực. Đó là đạo đức nhân bản, hay nói theo cách nhà Phật là đưa con người ta trở về với Phật tính của chính mình.

Tóm lại mỗi chúng ta cần vượt qua mọi khó khăn thử thách, mọi cám dỗ của đời thường để trau dồi đạo đức và hạt giống từ bi- trí tuệ có sẵn ở tự thân để trổ hoa, kết trái dâng hiến cho đời bằng chất liệu yêu thương hiểu biết, cùng nhau xây dựng đất nước, con người, tô điểm thêm cho nước vinh, đạo sáng. Góp sức mình phụng sự Đạo pháp và xây dựng xã hội ngày càng Chân – Thiện – Mỹ đúng như lời đức Phật dạy trong kinh Đại Phúc Đức. “Chung đụng trong nhân gian; Tâm không hề lay chuyển; Phiền não hết an nhiên; Sống hoàn toàn an tịnh; Là phúc đức lớn nhất”.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *